Nhabaond's Blog

Just another WordPress.com weblog

Phường Đức Giang, quận Long Biên (Hà Nội):Cưỡng chế nhà dân bằng biên bản giả

Hoàng Lê

Suốt một tháng qua, gần 20 hộ dân dãy nhà B17 và B31, thuộc 2 tổ 16, 17 phường Đức Giang, quận Long Biên (Hà Nội) gửi đơn kêu cứu, vì bị lực lượng chức năng cưỡng chế nhà trái pháp luật. Để ngụy biện cho hành vi không thực hiện đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất theo pháp luật, Ban Đền bù giải phóng mặt bằng (ĐBGPMB) đã ngụy tạo biên bản tống đạt quyết định đến các hộ dân…

Ngày 11-4-2008, UBND TP Hà Nội ban hành Quyết định thu hồi 4.103m2 đất nhỏ lẻ, xen kẹt tại tổ 16 và tổ 17, phường Đức Giang, quận Long Biên để xây dựng hạ tầng kĩ thuật, đấu giá quyền sử dụng đất vào mục đích làm nhà ở. Tại Điều 2 quyết định này ghi rõ, phải tiến hành ra quyết định thu hồi đất đối với từng hộ gia đình, cá nhân, hỗ trợ, bồi thường và tái định cư cho người bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật.

Đại diện các hộ dân trình bày sự việc với các nhà báo…

Theo bản đồ quy hoạch khu đất đấu giá “vuông thành sắc cạnh” nằm hai bên mặt đường chính này, thì những hộ gia đình nói trên bị thu hồi một phần diện tích. Người dân không thắc mắc gì về chủ trương của TP nhưng yêu cầu Ban ĐBGPMB phải thực hiện nghiêm chỉnh trình tự, thủ tục, xác định rõ loại đất để đền bù và tái định cư cho người bị thu hồi đất. Tất cả những gia đình sinh sống tại khu vực này đều là công nhân Nhà máy gỗ Cầu Đuống, được Nhà máy phân cho một phòng ở 16m2, một miếng đất sát mép ao của Nhà máy để làm bếp và công trình phụ, đã tôn tạo, đổ nền làm công trình phụ và ở ổn định từ năm 1985 đến nay. Đối chiếu với Khoản 4, Điều 50 Luật Đất đai 2003, thì các hộ dân thỏa mãn quy định của điều luật này là sử dụng ổn định từ trước 15-10-1993, không có tranh chấp, không vi phạm quy hoạch, nên phải được đền bù đất ở khi Nhà nước thu hồi đất. Song, Ban ĐBGPMB quận Long Biên cho rằng nhân dân lấn chiếm ao, dẫn đến hậu quả nặng nề cho người dân.

Trong khi người dân chưa nhận được quyết định thu hồi đất, phương án đền bù, tái định cư… thì ngày 24-5-2010, Chủ tịch UBND quận Long Biên ra các quyết định cưỡng chế đối với những gia đình thuộc tổ 16, 17. Các quyết định đều ghi rõ lí do cưỡng chế là, căn cứ vào quyết định thu hồi đất đối với từng hộ gia đình. Những hộ trên khẳng định họ chưa hề được Ban ĐBGPMB giao quyết định thu hồi đất, cũng như chưa nhận được phương án đền bù, tái định cư. Ông Phạm Việt Hưng, Phó Chủ tịch UBND phường Đức Giang biện minh rằng, các quyết định đã được tống đạt đến từng hộ dân, nhưng bà con không nhận. Kèm theo lời biện minh, ông Hưng đưa ra Biên bản bàn giao quyết định thu hồi đất đối với hộ ông Trần Tiến Trình. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng đây là biên bản ngụy tạo nhằm hợp thức hóa việc làm trái pháp luật của Ban ĐBGPMB. Bằng chứng là, không có chữ kí của đại diện hộ gia đình, một số thành viên Tổ công tác có tên trong biên bản nhưng không có chữ kí. Trong khi đó, lại có chữ kí của người không có tên trong biên bản. Về việc này, Luật sư Vũ Văn Lợi, Giám đốc Cty Luật TNHH Hòa Lợi, thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội cũng đồng tình với phát hiện nói trên.

Ngay sau đó, Cty Luật TNHH Hòa Lợi đã có công văn số 22 gửi Chủ tịch UBND quận Long Biên, yêu cầu dừng cưỡng chế để làm lại các thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật, nhưng không được chấp nhận. Căn cứ Luật Đất đai năm 2003; tại Điều 32, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP; Điều 70, Quyết định số 108/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội, thì UBND quận Long Biên chưa thực hiện đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất.

Hơn nữa, khi tổ chức cưỡng chế vào ngày 22-6-2010, lực lượng chức năng đã đập phá quá mức theo chỉ giới quy định đối với 7 hộ dân, có gia đình bị phá quá mức dẫn đến sập nhà, phải đi ở nhờ tại Nhà văn hóa tổ 17B như gia đình bà Trần Thị Tiền. Mặc dù nhân dân có rất nhiều đơn kêu cứu, yêu cầu chính quyền phải bồi thường, nhưng người có trách nhiệm giải quyết vụ việc này không mảy may quan tâm, để mặc nhà cửa của dân tan hoang cho nước mưa tràn vào.

Tháng Bảy 23, 2010 Posted by | Pháp luật và đời sống | Bình luận về bài viết này

Tin thêm về vụ án tại sân gôn Long Sơn (Hòa Bình):Luật sư khẳng định các bị cáo vô tội

Hoàng Linh

Như đã đề cập đến trong số báo 39 (652) ra ngày 14-5-2009, do yếu kém nhận thức về pháp luật, cơ quan điều tra và VKSND huyện Lương Sơn (Hòa Bình) đã bắt giam, truy tố oan sai 5 bị cáo trong vụ án tại sân gôn Long Sơn.  Sau thời gian điều tra bổ sung theo phán quyết của TAND huyện Lương Sơn, vừa qua vụ án lại tiếp tục được đưa ra xét xử. Tại phiên tòa, Luật sư Vũ Văn Lợi, Giám đốc Cty Luật TNHH Hòa Lợi đã cung cấp nhiều bằng chứng, căn cứ pháp luật khẳng định các bị cáo đều vô tội…

Cáo trạng của VKSND huyện Lương Sơn vẫn bảo lưu quan điểm truy tố các bị cáo, là thành viên tổ công tác giúp việc cho Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng dự án sân gôn Long Sơn gồm: Kiều Đình Thinh, Đỗ Văn Huệ, Nguyễn Thị Ngần tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Hai bị cáo: Đào Trọng Sinh, Nguyễn Văn Nhất bị truy tố với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Riêng bị cáo Đào Trọng Sinh, VKSND huyện Lương Sơn chỉ giữ lại nội dung cho rằng, ông Sinh đã kê khai gian dối thửa đất số 556, để chiếm đoạt 14.849.600 đồng tiền đền bù.

Luật sư Vũ Văn Lợi (bên phải) tranh luận tại phiên tòa.

Thực tế, ông Đào Trọng Sinh không mắc tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như VKSND huyện Lương Sơn truy tố. Khoản 1, Điều 139 Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Căn cứ hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa khẳng định, ông Đào Trọng Sinh không có hành vi gian dối. Bằng chứng là thửa đất 556 chỉ được thể hiện ở tờ bản đồ số 07, không có trên bất cứ tài liệu quản lí đất đai nào của địa phương như bản đồ địa chính xã Lâm Sơn năm 1995 và sổ mục kê năm 1997, nhưng diện tích tương ứng của thửa đất này là một phần của 2 thửa 08 – 09 mang tên ông Đào Trọng Sinh. Đây là sự nhầm lẫn xuất phát từ việc đo vẽ không đúng quy định của Trung tâm Kĩ thuật tài nguyên và môi trường (Sở Tài nguyên và Môi trường Hòa Bình). Đại diện đơn vị này cũng công nhận trước tòa rằng, khi đo vẽ không có dẫn đạc, cũng không có sự chứng kiến của các chủ sử dụng đất. Do đó, thửa 556 bị tách ra từ 2 thửa 08 – 09 và bị ghi là “đất hoang”. Cơ quan điều tra và VKSND huyện Lương Sơn căn cứ vào đó để truy tố oan ông Đào Trọng Sinh.

Hơn nữa, trong quá trình kê khai, ông Sinh không thể hiện có bất cứ thủ đoạn gian dối nào như đưa ra các thông tin giả tạo, cung cấp giấy tờ giả để lừa cán bộ Tổ công tác, mà dựa trên nguồn gốc đất đai của gia đình (diện tích khớp với tài liệu sử dụng đất), UBND xã cũng không thừa nhận diện tích đất này do xã quản lí. Lời khai của các nhân chứng cũng không đủ độ tin cậy, vì không phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hơn nữa các nhân chứng không xác định được chính xác thửa 556 ở vị trí nào, nên không thể coi là chứng cứ buộc tội. Tuy tại cơ quan điều tra, ông Sinh có kí vào các bản ghi lời khai, nhưng các tài liệu này không thể lấy làm bằng chứng. Khoản 2, Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu rõ: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”… Trong khi đó, trước tòa, ông Sinh một mực khai rằng bị cơ quan điều tra thúc ép, trong khi tâm trạng hoảng loạn, ông đã khai nhận theo ý của cán bộ điều tra.

Đối với bị cáo Kiều Đình Thinh, cũng như các thành viên Tổ công tác bị truy tố theo Khoản 1, Điều 258 Bộ luật Hình sự. Điều luật này quy định hành vi thiếu trách nhiệm là: “… không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao, gây hậu quả nghiêm trọng”. Các tài liệu, bằng chứng có trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo trước tòa đều khẳng định, các bị cáo đã thực hiện rất đầy đủ những yêu cầu của công việc. Không những thế, họ còn thực hiện công việc vượt mức so với nhiệm vụ được giao, nên vế “không thực hiện” bị loại trừ. Ở vế thứ hai, khái niệm “không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao” phải được hiểu rằng, đối tượng thực hiện công việc hời hợt, qua loa, không đầy đủ, không đến nơi đến chốn, cẩu thả, đại khái, hình thức… Do đó, tính chất này không phù hợp với hành vi của các bị cáo.

Đại diện Trung tâm Kĩ thuật Tài nguyên và Môi trường (người cầm micro).

Trong QĐ số 555/QĐ-UB về việc thành lập Tổ công tác không giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, thời gian và công việc cụ thể quy định tại QĐ này do Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng (Hội đồng) phân công. Trong quá trình thực hiện, Hội đồng không hề giao nhiệm vụ cho bất cứ thành viên nào của Tổ công tác. Hơn nữa, khi thực hiện một khối lượng công việc lớn, vượt quá khả năng của Tổ công tác, nhưng họ không được tập huấn; không được trang bị phương tiện; tài liệu, hồ sơ liên quan đến thu hồi đất thiếu thốn, không hợp pháp, không chính xác. Bằng chứng là tờ bản đồ số 07 được đo vẽ cẩu thả, không có dẫn đạc và chỉ dẫn của các chủ sử dụng đất, dẫn đến sai lệch vị trí các thửa đất, gây chồng chéo diện tích sử dụng đất của các hộ dân. Trong khi thực hiện công việc, Tổ công tác phát hiện ra sai sót, đang trong quá trình khắc phục, thu hồi tiền đền bù đối với các hộ dân thì bị bắt tạm giam và truy tố.

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 40 Nghị định 197/2004/NĐ-CP thì: “Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lí của số liệu kiểm kê, tính pháp lí của đất đai, tài sản được bồi thường, hỗ trợ hoặc không được bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”. Trong vụ án này, Hội đồng không hề thực hiện trách nhiệm theo pháp luật, dẫn đến sai sót, kê thừa, chồng chéo với 79 hộ và 1 tổ chức (UBND xã Lâm Sơn), nên đã thanh toán thừa cho các cá nhân, tổ chức với số tiền trên 800 triệu đồng. Tổ công tác đã rà soát, thu hồi lại số tiền thừa, đến nay chỉ còn trên 30 triệu đồng chưa thu hồi được. Do đó, VKSND huyện Lương Sơn truy tố các thành viên Tổ công tác là không có căn cứ.

Từ những luận chứng nêu trên, Luật sư Vũ Văn Lợi khẳng định trước tòa, các bị cáo đều vô tội, bị truy tố, bắt giam, khởi tố oan sai, cần phải được minh oan bằng bản án công tâm, đúng pháp luật.

Tháng Bảy 23, 2010 Posted by | Pháp luật và đời sống | Bình luận về bài viết này